Phản bác luận điệu xuyên tạc mục đích và ý nghĩa hành trình đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh
110 năm (5/6/1911 – 5/6/2021) là độ lùi lịch sử đã đủ độ tin cậy để có thể khẳng định rằng ngày 5/6/1911 là một trong những sự kiện trọng đại trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lựa chọn, khởi đầu và quyết định chính xác từ ngày đó đã góp phần quan trọng làm nên nhà cách mạng Hồ Chí Minh và Người là một trong những người hiếm có của thời đại chúng ta khi “không chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải phóng và phúc lợi của toàn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng Người phát động đã mang tầm cỡ thế giới”(1).
SỰ LỰA CHỌN CHÍNH XÁC CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH
Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đã đắm chìm trong đêm trường nô lệ. Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, nền độc lập của dân tộc bị xâm phạm, quyền được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc của mỗi người dân ở xứ An Nam thuộc địa đều bị chà đạp, tước bỏ. Không cam chịu làm nô lệ, các phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam liên tiếp nổ ra: Từ phong trào Cần Vương, Văn Thân đến cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế; từ phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung Kỳ…, song cuối cùng đều bị dìm trong bể máu.
Cũng trong những năm tháng đó, không chỉ sống ở xứ Nghệ, Nguyễn Tất Thành còn được sống ở kinh thành Huế. Người không chỉ được học chữ Hán, bước đầu làm quen với thời đại qua những sách Tân thư, Tân văn bằng tiếng Hán; được nghe các thầy giảng giải về nền dân chủ và văn minh phương Tây mà khi theo học lớp dự bị (préparatoire) ở Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh trước đó, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” nổi tiếng của cách mạng tư sản Pháp 1789. Sau này, Người kể lại với nhà văn Liên Xô Ôxíp Manđenxtam rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cùng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” (2).
Truyền thống của quê hương và gia đình, sự tác động về nhiều mặt của thời cuộc đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nguyễn Tất Thành. Vì vậy mà, dù rất khâm phục lòng yêu nước của các bậc tiền nhân theo tư tưởng phong kiến hoặc dân chủ tư sản, nhưng khác họ, qua những kiến thức mới mẻ tiếp thu được từ Tân thư, từ những năm tháng học tập, sinh sống ở Huế và bằng nội lực bẩm sinh, Nguyễn Tất Thành hiểu rằng một thời đại mới, đòi hỏi một con đường đi mới, một phương thức đấu tranh mới – Đó chính là làm cách mạng và nó khác hẳn những con đường đấu tranh yêu nước đã từng diễn ra.
Vì thế mà, Nguyễn Tất Thành đã quyết định không sang phương Đông, không nhờ cậy vào những người “anh lớn” Trung Quốc và Nhật Bản, mà muốn làm quen với văn minh Pháp, muốn xem những gì ẩn giấu đằng sau những mỹ từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của cách mạng Pháp. Nguyễn Tất Thành đã muốn học hỏi nhiều hơn những gì mình đang có, dân tộc mình đang có, để không chỉ làm giàu tri thức cho mình mà chính là hướng đến mục tiêu giải phóng dân tộc mình. Từ xuất phát điểm này, từ sự vượt lên chính mình này đã quyết định sự lựa chọn, con đường đi sau đó của Người – đó là rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, mở đầu một chặng đường dài xa Tổ quốc.
Với ý chí và quyết tâm của một người dân mất nước, với nhiệt huyết và sức trẻ của tuổi thanh xuân, Nguyễn Tất Thành đã khởi đầu một con đường đúng khi quyết định xin làm thuê trên tàu Đô đốc Latútxơ Trêvilơ (Amiran Latusơ Tơrêvin), rời Tổ quốc ngày 5/6/1911 để “tìm đường đi cho dân tộc theo đi”. Có thể nói, đây là một suy nghĩ đúng đắn, hợp quy luật và thời đại.
Theo hành trình của tàu, Người đã đến Marseille, Le Havre, Dunkerque, Manche của Pháp… Ngày 15/9/1911, Người viết đơn gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc địa Pháp trình bày nguyện vọng muốn được xin vào học tại Trường Thuộc địa. Đơn của Người được gửi từ Marseille; trong đó có đoạn viết: “Tôi vinh hạnh, xin một đặc ân với lòng nhân từ cao cả của ông được thu nhận vào học Trường Thuộc địa như một học sinh nội trú. Hiện tại tôi là nhân viên của Hãng Sácgiơ Rêuyni (Chargeurs Réunis) tàu Amiran Latusơ Tơrêvin”(3), với mong muốn “trở thành có ích cho đồng bào tôi, muốn cho họ được hưởng những lợi ích của học thức”(4). Tuy nhiên yêu cầu này đã bị từ chối vào tháng 10/1911 và theo hành trình của tàu, Người trở lại Sài Gòn.
Sau đó, Người quay lại Pháp và theo hành trình của hãng tàu Người bắt đầu hành trình lao động kiếm sống, tích luỹ tri thức, khảo nghiệm và tìm hiểu đời sống chính trị, xã hội các quốc gia, dân tộc và các nền văn hoá của nhiều châu lục… Vậy là, trải qua những tháng ngày lao động vất vả, bằng nghề làm phụ bếp trên tàu; thợ chụp ảnh, vẽ đồ giả cổ Trung Hoa ở thủ đô Paris của nước Pháp hoa lệ; làm người cào tuyết cho trường học, bồi bàn trong khách sạn ở nước Anh; học tập, nghiên cứu ở nước Nga; hoạt động ở Trung Quốc, v.v.. Nguyễn Ái Quốc đã có một hành trình dài với biết bao điều lớn lao:
Thứ nhất, sống, học tập và hoạt động không mệt mỏi, thực sự hòa mình vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới và đi đến lựa chọn đúng, đó là đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô sản khi bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ III của Lênin/Quốc tế Cộng sản – trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp vào tháng 12/1920 (tại Đại hội Tua) khi hiểu rõ rằng: “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới”(5). Vì thế, “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(6) và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(7)…
Thứ hai, ham học hỏi, không sợ cường quyền, từng bước vượt qua mọi thử thách, gian truân, luôn phấn đấu cao độ với một nghị lực phi thường và một định hướng chính trị đúng để gom góp và đanh thép đưa ra bản cáo trạng tội ác thực dân – Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925. Đồng thời, được chứng kiến những diễn biến lớn của thời đại, Nguyễn Ái Quốc đã thấy những tồn tại, những khoảng cách và cả những bất công về quyền lợi và hưởng thụ trong lòng xã hội tư bản, tất yếu sẽ dẫn đến những “khủng hoảng” không thể tránh khỏi ở cả các nước chính quốc, như nước Mỹ (với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776) và nước Pháp (với bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng 1791, để rồi đi tới khẳng định: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”(8). Vì thế, theo Người, vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là nhu cầu của dân tộc và con người Việt Nam mà là của tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế giới.
Thứ ba, đi từ dân tộc đến nhân loại, Người đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin với thế giới quan khoa học và cách mạng, để phát hiện và nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển tất yếu của thời đại khi khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(9). Với ý nghĩa đó, có thể thấy, Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ tìm được con đường cứu nước, cứu dân phù hợp yêu cầu của đất nước và quy luật của thời đại mà còn trang bị cho mình một nhân sinh quan mới để định hình con đường phát triển cho dân tộc Việt Nam khi nhấn mạnh rằng, ở đó “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…Chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc”(10). Đây là quá trình khảo nghiệm, thâu thái tinh hoa, tri thức các nền văn minh nhân loại theo cách “tiếp biến và vượt gộp” của Hồ Chí Minh, để vừa sáng tạo, vừa độc lập vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam khi quyết định trở về Quảng Châu, Trung Quốc (11/11/1924) chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó.
Thứ tư, trên cơ sở những nguyên lý của học thuyết Mác – Lênin về xây dựng Đảng, Nhà nước, về phương pháp vận động quần chúng, tập dượt đấu tranh cách mạng được tích luỹ trong những năm tháng hoạt động của tuổi trẻ, bằng những việc làm cụ thể như mở lớp huấn luyện chính trị, thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, sáng lập báo Thanh niên 6/1925, tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng Cộng sản, về Cách mạng Tháng Mười Nga, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh đầu năm 1927.v.v, Nguyễn Ái Quốc đã ngày mỗi ngày góp phần đưa tư tưởng của thời đại mới về Việt Nam, thúc đẩy sự chuyển biến về chất trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sau đó, khi các tổ chức cộng sản Việt Nam ra đời, Người đã tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (từ 6/1-8/2/1930) tại Hương Cảng. Hội nghị đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong đó khẳng định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; “a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b) Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”(11).
Thứ năm, dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối cách mạng đúng đắn, với sức mạnh đoàn kết muôn người như một của các tầng lớp nhân dân yêu nước, kiên cường, đồng lòng ủng hộ, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã giành thắng lợi. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á; đồng thời, đưa những thân dân/người dân nô lệ An Nam trở thành chủ nhân của nước Việt Nam độc lập, tự do.
Tiếp đó, kiên định con đường đã lựa chọn, nhân dân Việt Nam kiên trì tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và một đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp xu thế thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), sau hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, một đất nước Việt Nam đổi mới từng ngày đã khẳng định được vị thế của mình trong cộng đồng các quốc gia, đóng góp vào sự phát triển bền vững, phồn vinh của nhân loại; góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của loài người tiến lên trong một thế giới đầy biến động.
KHẲNG ĐỊNH TẦM VÓC, GIÁ TRỊ SỰ KIỆN NGÀY 5/6/1911
Sự thật hành trình ra đi tìm đường cứu nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước để lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là như vậy. Từng chặng đường Người đã trải qua, những hoạt động của Người từ năm 1890-1969 đều được cập nhật khá đầy đủ trong các bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập 15 tập, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử 10 tập, trong các cuốn sách Hồ Chí Minh tiểu sử chi tiết và tóm tắt; trong các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả ở trong và ngoài nước… Tuy nhiên, bất chấp các thông tin chính xác đã có, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị không chỉ thường bịa đặt, bẻ cong sự thật, xuyên tạc về động cơ sang phương Tây tìm đường cứu nước của Người mà còn hồ đồ suy diễn để bôi đen nội dung lá đơn xin học ở Trường Thuộc địa của Người.
Đối với sự kiện lá đơn xin học và động cơ ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành, có thể khẳng định rằng:
Một là, không thể xuyên tạc mục đích xin học Trường Thuộc địa của Nguyễn Tất Thành, bởi nơi đây chỉ dạy ngôn ngữ và văn minh Pháp cho những thanh niên Việt Nam do Toàn quyền Đông Dương gửi sang học. Trong đó, học viên của Trường Thuộc địa không nhất thiết phải trở thành quan chức (mà Bùi Kỷ, Lê Văn Miến và nhiều người khác là những ví dụ thực tế). Hơn nữa, từ năm 1896 trở đi, cùng với việc đào tạo học viên trở thành nhà cai trị thuộc địa tương lai thì Trường Thuộc địa còn có những lớp dạy cho những người bản xứ các nghề chuyên môn như điện báo, kế toán, công xưởng…
Đồng thời, cũng không thể suy luận và xuyên tạc mục đích xin học Trường Thuộc địa của Người khi cho rằng: Nguyễn Tất Thành ban đầu học tập là vì theo ý muốn của cha để sau này sẽ làm quan triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên, vì cha đã bị mất chức, nên việc làm quan triều đình nhà Nguyễn không thành, do đó mới tìm cơ hội sang Pháp, xin học ở Trường Thuộc địa, với “mộng làm quan cho thực dân Pháp”. Thực chất, Người chưa bao giờ có ý định làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, lại càng không bao giờ muốn trở thành quan cai trị thuộc địa tương lai, vì Người không chỉ thấu hiểu rất rõ tâm tư của người cha: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ”/nghĩa là “Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn” mà còn có khát vọng lớn lao là “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những điều tôi hiểu!”(12).
Hơn nữa, luận bàn về lá đơn xin học ở ở Trường Thuộc địa này, nhà sử học Pháp khá nổi tiếng D.Hémery từng nhấn mạnh rằng: “Lá đơn trước hết thể hiện ý muốn tạm thời được học, nhưng đơn xin học còn bao hàm một ý nghĩa khác, tóm tắt trong khẩu hiệu lưu hành lúc đó trong các thanh niên học sinh “xuất dương du học rồi về nhà cứu nước”…, để phổ biến tri thức hiện đại trong các dân tộc thuộc địa”(13). Vì thế, có thể thấy, thực chất của việc xin học ở Trường Thuộc địa là Người muốn được học tập để làm giàu tri thức của mình, với “ý muốn trở thành có ích cho đồng bào tôi, muốn cho họ được hưởng những lợi ích của học thức” như đã trình bày trong lá đơn.
Hai là, sau khi bị Trường Thuộc địa từ chối, với mong muốn tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Người đã quyết định làm thuê cho một hãng tàu biển, tiếp tục hành trình lao động kiếm sống, học hỏi và hoạt động cách mạng ở nhiều quốc gia, nhiều châu lục. Trong những năm tháng đó, Người có thời gian khám phá, chiêm nghiệm để hiểu được thực chất của “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, của pháp quyền, dân chủ và mô hình tổ chức Nhà nước tư sản; của nhân quyền, pháp quyền, dân chủ, mô hình tổ chức Nhà nước Xô viết và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo tinh thần của V.I.Lênin, để rồi sau khi đã “trưng cất” được những tinh hoa của nền văn minh phương Đông và phương Tây, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, Người quyết định trở về “giúp ích cho đồng bào mình”, lãnh đạo đồng bào mình tiến hành cuộc cách mạng giải phóng, chứ không phải giống như các luận điệu phản động, bịa đặt là: khi “bị từ chối thì bất đắc phiêu lưu kiếm sống, không có thời giờ suy nghĩ chuyện đất nước” và Nguyễn Ái Quốc “đến Liên Xô học tập là hy vọng có việc làm kiếm lương hằng tháng, chứ không phải vì cách mạng Việt Nam”…
Thực tế là từ những tri thức tích luỹ được; từ sự thấu hiểu được nguồn sức mạnh nội lực “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” và với niềm tin cháy bỏng về một Tổ quốc Việt Nam được độc lập, nhân dân Việt Nam được tự do; với mong muốn đem lại hạnh phúc “cho tất cả mọi người”, Người đã không chỉ tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho cách mạng Việt Nam, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng đường lối chính trị đúng đắn phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế của thời đại là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, mà còn cùng Đảng xúc tiến xây dựng lực lượng cách mạng, lực lượng vũ trang cách mạng, căn cứ địa cách mạng, xây dựng và củng cố, mở rộng các hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi… thiết thực, hiệu quả để chuẩn bị cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Trong quá trình đó, Người không chỉ thành công trong việc vận dụng học thuyết Mác – Lênin vốn có cơ sở thực tế từ xã hội phương Tây vào thực tiễn một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chưa phát triển như Việt Nam mà còn phát triển học thuyết đó lên một tầm cao mới, phù hợp với phần thế giới còn lại – đó là những nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, mà Việt Nam là một điển hình.
Ba là, thời gian càng lùi xa, càng khẳng định rằng, hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành cách đây hơn một thế kỷ đã trở thành sự thật. Từ một sự lựa chọn đúng và khởi đầu một hướng đi đúng, với ý chí, quyết tâm và sự phấn đấu không mệt mỏi cho con đường mình đã chọn, Người ra đi từ bến cảng Sài Gòn năm 1911 đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn và lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì một nước Việt Nam độc lập và thống nhất, tự do và hạnh phúc, ngày một phát triển bền vững.
Đồng thời, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con đường cách mạng do Người cùng Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn, 110 năm sau – một nước Việt Nam “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” trên hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội “đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (14) như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.
Vì vậy, vượt lên sự chống phá, bôi đen, xuyên tạc, bẻ cong sự thật của các thế lực phản động, thù địch, thì vẫn có thể khẳng định rằng: Ngày 5/6/1911 không chỉ là một sự kiện đặc biệt đánh dấu một sự lựa chọn chính xác của Nguyễn Tất Thành mà còn cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Đi theo con đường Người đã chọn, đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã hòa mình vào dòng chảy chung của nhân loại; đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp về thế, về lực, về thời để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển vững mạnh và phồn vinh, từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, sánh vai cùng bạn bè quốc tế./.
TS. Đinh Quang Thành/TG
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
—————————-
(1) Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.43
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.461
(3) Đơn ngày 15/9/1911 của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống Pháp, bản chụp bút tích, lưu Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
(4) Đơn ngày 15/9/1911 của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống Pháp, bản chụp bút tích, lưu Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H,, 2011, t.15, tr.388.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.12, tr.30.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.12, tr.563.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.1, tr.287.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.563
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.511
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1
(12) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử., Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.112
(13) Hồ Chí Minh, De L’ Indochne au Vietnam, Gallimard, Paris, 1990, P.36,37 (dẫn theo Song Thành: Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.57)
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, tr.25