VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA THÚC KHÁNG
Gần đây, trên nhiều diễn đàn phản động xuất hiện bài viết “Vì sao chưa có luật về đảng?” của Thúc Kháng. Nội dung xuyên suốt của bài viết là sự xuyên tạc: “Ở Việt Nam không có luật về đảng, và đây là “sự lựa chọn có chủ đích” phục vụ cho sự lãnh đạo “độc tôn” của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Qua đó, hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo và tính hợp pháp, hợp hiến của Đảng Cộng sản Việt Nam, gây hoang mang, dao động trong dư luận, tạo mầm mống cho sự bất ổn chính trị – xã hội ở nước ta.
1. Việc Thúc Kháng đưa ra luận điệu sai trái trên không phải là một sự ngộ nhận hay thiếu hiểu biết đơn thuần, mà là sự cổ súy trực tiếp cho âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhằm vào các mục tiêu: 1) Phủ nhận tính chính danh và hợp pháp của Đảng: Bằng cách lập luận Đảng hoạt động không dựa trên luật pháp, Thúc Kháng và các đối tượng chống phá muốn tạo ra hình ảnh một Đảng “đứng trên pháp luật”, “ngoài vòng pháp luật”, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo hợp hiến của Đảng; 2) Gây nhiễu loạn nhận thức, làm xói mòn niềm tin: Luận điệu này tác động trực tiếp tới nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, gây ra sự hoài nghi, mơ hồ về bản chất của hệ thống chính trị Việt Nam, làm suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; 3) Tạo cớ để các thế lực ngoại bang can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam: Trên trường quốc tế, luận điệu này được sử dụng như một “bằng chứng” để vu cáo Việt Nam “vi phạm dân chủ”, “độc tài”, “không có nhà nước pháp quyền”, từ đó tạo áp lực chính trị, ngoại giao và kinh tế, tìm cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
2. Trước mưu đồ nham hiểm, thâm độc của Thúc Kháng, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần nhận thức rõ: tại Việt Nam, địa vị pháp lý, vai trò và trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam không được quy định trong một đạo luật riêng lẻ mang tên “Luật về Đảng”; mà được trang trọng ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây không chỉ là một tuyên bố chính trị mà là một quy phạm pháp luật hiến định, có giá trị bắt buộc thi hành chung; xác lập một cách rõ ràng và chính danh địa vị pháp lý của Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong đó, Khoản 3, Điều 4 Hiến pháp ghi rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Đây chính là “luật về Đảng”, khẳng định nguyên tắc Đảng không đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ của Đảng với các thiết chế khác trong hệ thống chính trị còn được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, tạo thành một hệ thống đồng bộ, như: Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Phòng, chống tham nhũng… Đây là minh chứng rõ nhất cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng được thực thi thông qua Nhà nước và bằng pháp luật, tạo nên đặc trưng cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng luôn chịu sự giám sát của Nhân dân thông qua cơ chế bầu cử dân chủ, phản biện xã hội. Cán bộ, đảng viên vi phạm đều bị xử lý theo Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước. Các cơ quan như Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước… đều có chức năng giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên. Nhìn rộng ra thế giới, nhiều quốc gia (kể cả các nước tư bản phát triển) cũng không có luật riêng về đảng cầm quyền, nhưng điều đó không có nghĩa là các đảng cầm quyền có thể hoạt động ngoài vòng pháp luật. Điều đó cho thấy, luận điệu “Ở Việt Nam không có luật về Đảng” của Thúc Kháng là hoàn toàn sai trái, ngụy biện, nguy hiểm, cần loại bỏ khỏi đời sống chính trị – xã hội nước ta.
Thực tế đã chứng minh, địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác lập trong đạo luật có hiệu lực cao nhất là Hiến pháp. Hoạt động của Đảng được điều chỉnh và giới hạn bởi chính Hiến pháp, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ và khoa học về vấn đề này không chỉ là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn của mọi công dân. Từ đó, phát huy tinh thần trách nhiệm xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sức đề kháng mạnh mẽ trước mọi luận điệu xuyên tác của Thúc Kháng và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
(NVV)