Không thể xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng

Chỉ khi nào nguyên tắc tập trung dân chủ được hiểu đúng và tổ chức thực hiện nghiêm túc thì mỗi tổ chức đảng, đảng viên mới có thể hành động tự giác và “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về nguyên tắc này; qua đó, khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, không thể đổi thay.

1- Nguyên tắc là những điều cơ bản, nền tảng, được tổ chức đặt ra đòi hỏi cá nhân phải tuân theo khi tham gia vào một tổ chức để tồn tại, phát triển và thực hiện mục tiêu của tổ chức. Nguyên tắc do chính những thành viên của tổ chức đặt ra, trên cơ sở nhận thức được quy luật khách quan để thống nhất thực hiện trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của tổ chức. Một trong những nguyên tắc hoạt động của tổ chức là nguyên tắc tập trung dân chủ – mà nội dung cơ bản của nguyên tắc này là mọi thành viên đều được thảo luận các công việc của tổ chức với những ý kiến có thể khác nhau nhưng khi quyết định cuối cùng thì theo đa số.

Cũng như nhiều tổ chức khác, Đảng cộng sản ngay từ khi ra đời và đến nay đã lựa chọn nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đây là nguyên tắc cơ bản để xây dựng tổ chức và chỉ đạo hoạt động của mình. Mặc dù trong mỗi tổ chức và trong từng thời kỳ khác nhau, nội dung chi tiết của nguyên tắc tập trung dân chủ có sự điều chỉnh nhất định nhưng bản chất và nội dung cơ bản của nguyên tắc thì không bao giờ thay đổi.

Tư tưởng về xây dựng một đảng vô sản trên cơ sở của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được C. Mác và Ph. Ăng-ghen đưa vào Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản (gọi tắt là Liên đoàn), được Đại hội lần thứ hai của tổ chức này phê chuẩn tháng Chạp năm 1847. Điều lệ xác định cơ cấu tổ chức và hoạt động của Liên đoàn thấm nhuần sâu sắc tinh thần tập trung dân chủ: Liên đoàn được tổ chức với cơ cấu thật sự dân chủ, các cơ quan lãnh đạo của đảng được bầu ra và nếu có sai lầm, yếu kém có thể bị thay thế và bãi miễn bất cứ lúc nào; mọi đảng viên đều bình đẳng, tự do thảo luận những vấn đề về sinh hoạt đảng, tranh luận trong khuôn khổ tính đảng… Do đó, đã tạo nên sức mạnh của Liên đoàn, ngăn chặn được mọi âm mưu và thủ đoạn chiếm độc quyền của một số lãnh đạo trong Liên đoàn.

Sau khi Ph. Ăng-ghen mất năm 1895, các đảng dân chủ – xã hội thuộc Quốc tế II đi theo khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, công khai từ bỏ chuyên chính vô sản, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, xét lại chủ nghĩa Mác. Quốc tế II trở thành “Quốc tế vàng”, xa rời mục tiêu chính trị và những nguyên tắc của một đảng mác-xít chân chính. Trong điều kiện ấy, tại Đại hội II của Đảng Công nhân dân chủ – xã hội Nga năm 1903, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng cải lương trong Đảng, luận giải khoa học và kiên quyết áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với những nội dung đầy đủ, chặt chẽ hơn. Tên gọi nguyên tắc tập trung dân chủ đã chính thức được ghi trong Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng Công nhân dân chủ – xã hội Nga năm 1906. Từ đó, tập trung dân chủ được coi là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác, góp phần làm cho Đảng Bôn-sê-vích (phái đa số theo V.I. Lê-nin) có đủ sức mạnh để lãnh đạo phong trào, tiến hành Cách mạng Tháng Mười Nga thành công.

Những đảng cộng sản ra đời sau này, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, đều lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và lấy tập trung dân chủ làm một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản, chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa bảo đảm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động, vừa phát huy dân chủ, tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng. Tuy nhiên, những sai lầm của các đảng cộng sản trong chủ trương, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trước những năm 80 của thế kỷ XX đã làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào tình trạng thoái trào, buộc phải cải cách, cải tổ, đổi mới. Trong quá trình ấy, những đảng cộng sản nào kiên trì thực hiện các nguyên tắc của công cuộc đổi mới và những nguyên tắc về xây dựng Đảng thì cách mạng vượt qua được khó khăn, thử thách, chấn hưng đất nước, giữ vững và củng cố vị thế cầm quyền. Trái lại, những đảng cộng sản nào không giữ vững những nguyên tắc tổ chức căn bản, đổ lỗi cho nguyên tắc tập trung dân chủ, từ bỏ nguyên tắc này đều dẫn đến mất định hướng tư tưởng, mất đoàn kết, rồi tự tan rã và cuối cùng là đánh mất vai trò cầm quyền. Ngay cả Đảng Cộng sản Liên Xô, do hiểu không đúng về dân chủ, buông lỏng và dần từ bỏ nguyên tắc này với chủ trương “đa nguyên ý kiến” – tức là chấp nhận những ý kiến khác nhau, thậm chí là trái chiều cả về những vấn đề mang tính nguyên tắc sống còn của Đảng như nền tảng tư tưởng Mác – Lê-nin, nên đã làm cho đông đảo đảng viên mất phương hướng, hệ thống tổ chức rệu rã, tê liệt và cuối cùng, Đảng tự tan vỡ.

2- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, được Hiến pháp ghi nhận là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với trọng trách to lớn trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc cho nên Đảng phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và với kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo đất nước gần 90 năm qua, Đảng ta khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(1).

Tiếp nối những nguyên tắc xây dựng Đảng qua các kỳ đại hội, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội XI của Đảng thông qua đã hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(2). Như vậy, trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng nêu trên thì nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc được xác định đầu tiên, cơ bản nhất và quan trọng nhất.

Trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, dân chủ ngày càng được mở rộng gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong mọi hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên. Những quyết định lớn, quan trọng của Đảng đều được tổ chức thảo luận rộng rãi, tập hợp trí tuệ của các tổ chức đảng, đảng viên, cùng với sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội các cấp. Sinh hoạt của các cấp ủy và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở hơn. Cấp ủy viên các cấp, mỗi đảng viên mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình. Các hình thức hội thảo, đối thoại được tăng cường; thực hiện chế độ tiếp đảng viên và người dân của bí thư cấp ủy. Việc bầu cử trong Đảng có nhiều đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ, nhất là việc đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ được tiến hành nghiêm túc theo các quy định chặt chẽ, công khai, minh bạch và dân chủ hơn. Tình trạng cục bộ, mất đoàn kết trong tổ chức đảng được chấn chỉnh, nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm bị xử lý kịp thời. Dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội có bước khởi sắc từ việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo cách mạng nước ta giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong 33 năm thực hiện đổi mới vừa qua.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, một số tổ chức đảng thực hiện không nghiêm túc, hiệu quả thấp, thậm chí có nơi nguyên tắc này còn bị bóp méo, vô hiệu hóa. Có cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và chưa phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi còn gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền. Đã có không ít trường hợp, người đứng đầu tổ chức đảng lợi dụng, thâu tóm quyền lực phục vụ lợi ích cá nhân, thực hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm” bằng mọi thủ đoạn, như trù úm những người có ý kiến khác với mình, kéo bè, kéo cánh. Khi đó, các thành viên trong tổ chức đảng bị phân liệt hoặc phải ủng hộ cái sai của nhau, không dám bảo vệ cái đúng, dẫn đến đoàn kết xuôi chiều (thực chất là mất đoàn kết), làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức diễn ra phổ biến, kéo dài ở tổ chức đảng thì nguyên tắc tập trung dân chủ lại trở thành bình phong che chắn cho những hành vi tham nhũng của cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống.

Nguyên nhân của tình trạng nêu trên rất đa dạng. Do thiếu những cơ chế cụ thể bảo đảm và phát huy dân chủ khi thực hiện những quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định của Trung ương. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” chưa được thực hiện nghiêm túc, thiếu hiệu lực và hiệu quả do không xác định rõ cơ chế chịu trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, dẫn đến khi có sai sót, khuyết điểm thì không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám đột phá; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.

Điều đáng nói là, tình trạng đó kéo dài nhưng ít được quan tâm phân tích làm sáng tỏ và có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu. Khi tình trạng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ không được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí diễn ra ngày càng phức tạp, có những tổ chức đảng mất sức chiến đấu thì xuất hiện quan điểm cho rằng nguyên tắc này không có tính khả thi, càng thực hiện thì càng mất dân chủ, càng độc đoán, chuyên quyền (?!). Một số đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo và một số nhà lý luận cũng có lúc nghi ngờ tính khả thi của nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Hàng chục năm qua, trên các diễn đàn, hội thảo khoa học hay các bài viết trên một số tạp chí đã đề xuất thay đổi tên nguyên tắc “tập trung dân chủ” thành nguyên tắc “dân chủ” hay nguyên tắc “dân chủ tập trung” với mong muốn dân chủ thực sự hơn, hạn chế tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền.

Trong khi đó, các thế lực thù địch lợi dụng những khuyết điểm trong thực hiện nguyên tắc này càng ra sức xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ hòng làm cho đảng viên hoang mang, hoài nghi, muốn từ bỏ nguyên tắc. Đó thực chất là một trong những hoạt động “diễn biến hòa bình” làm cho chính những đảng viên của Đảng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm cho tổ chức đảng mất sức chiến đấu, rệu rã, tê liệt, suy yếu và để chúng dễ bề thực hiện mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

3- Với kinh nghiệm và bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; kiên quyết phê phán, ngăn chặn mọi mưu toan xa rời, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, các tổ chức đảng cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ. 

Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng tổ chức, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng chi phối các nguyên tắc tổ chức, hoạt động khác của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho đảng cộng sản thống nhất về tư tưởng chính trị và tạo nên sức mạnh của tổ chức, xây dựng được đội ngũ đảng viên năng động, sáng tạo, có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao. Nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho đảng luôn luôn là một tổ chức lãnh đạo, một tổ chức hành động chứ không phải là một câu lạc bộ chỉ bàn cãi suông. Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định cụ thể, chặt chẽ mối quan hệ của đảng viên với tổ chức đảng, giữa các tổ chức đảng từ dưới lên trên, giữa một cấp ủy đảng với đại hội đại biểu hay đại hội đảng viên của cấp đó, bảo đảm hành động nhịp nhàng, nhất quán.

Tập trung dân chủ là một nguyên tắc thống nhất, không tách rời, càng không thể đối lập giữa tập trung và dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ hướng tới sự tập trung nhưng là sau khi đã bàn bạc dân chủ. Tập trung không trên cơ sở dân chủ thì sẽ trở thành tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; ngược lại, dân chủ mà không đi tới tập trung thì sẽ rơi vào tình trạng dân chủ vô tổ chức, hỗn loạn. V.I. Lê-nin viết: “chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(3). Người khẳng định rõ: trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế độ tập trung của đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ. Tùy tình hình, nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ, cách thực hiện và phạm vi áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ có sự khác nhau, nhưng điều đó không có nghĩa coi tập trung là chính, dân chủ là phụ, hay dân chủ là chính, tập trung là phụ.

Thứ hai, tổ chức thực hiện đúng nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ.

Những nội dung căn bản của nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng ta hiện nay được quy định trong Điều lệ Đảng: các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; mỗi tổ chức đảng phải thực hiện chế độ báo cáo với cấp trên, thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc; tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức; nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành; tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, chính sách,  pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

Nội dung trên của nguyên tắc khá ổn định vì đã được thực tế kiểm nghiệm, khó có thể bãi bỏ nội dung nào của nguyên tắc và cũng khó có thể bổ sung thêm những nội dung mới cho nguyên tắc này.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ cho từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.

Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Vấn đề quan trọng nhất vẫn là ở khâu triển khai thực hiện. Dân chủ phải thực sự là “chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề”, nhưng dân chủ đòi hỏi cần có một hành lang pháp lý rõ ràng. Do vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện các thiết chế, cơ chế nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thông tin, thảo luận, chất vấn, phê bình, bảo lưu ý kiến hay rút ý kiến bảo lưu mà không bị phân biệt đối xử, trù úm dưới mọi hình thức. Tổ chức đảng nếu bị xử lý kỷ luật cả tập thể do có các quyết định sai lầm, thì những đảng viên có ý kiến thiểu số được bảo lưu sẽ không phải chịu trách nhiệm. Tình trạng “dĩ hòa vi quý”, quan niệm “đấu tranh tránh đâu” vẫn còn, vì trên thực tế các quy định bảo vệ người đứng đắn, trung thực, dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, tố cáo hành vi sai trái vẫn chưa đủ sức mạnh, thiếu tính khả thi. Đồng thời, cùng với việc mở rộng dân chủ, phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, không để bất cứ ai lợi dụng dân chủ, lợi dụng quyền phê bình để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của đồng chí mình, gây mất đoàn kết nội bộ. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành các quy định của Đảng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng.

Phát huy dân chủ trong Đảng còn phụ thuộc vào người đứng đầu cấp ủy. Nếu bí thư cấp ủy thành tâm tiếp thu góp ý, phê bình thì sẽ phát huy được trí tuệ, kinh nghiệm, sức sáng tạo và sự đồng tình, quyết tâm chính trị của mọi thành viên trong tập thể lãnh đạo. Hơn nữa, bí thư cấp ủy phải là người có hiểu biết, có khả năng đánh giá đúng/sai; đồng thời, phải có bản lĩnh, chính kiến để bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai, giữ vững đoàn kết trong tập thể. Bí thư cấp ủy còn phải thực sự làm gương, nêu gương trong mọi hoạt động và cuộc sống để tạo sức lan tỏa, cảm hóa, thực sự là trung tâm đoàn kết trong tổ chức đảng và khi ấy, nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ được phát huy đầy đủ.

Thứ tư, thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách.

Chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách là nội dung quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ và phải được thể hiện trong quy chế làm việc của từng tổ chức đảng. Quy chế làm việc không chỉ xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể khi ban hành quyết định, mà còn xác định rõ trách nhiệm cá nhân của từng cán bộ tham mưu, từng cấp ủy viên trong việc thực hiện từng khâu chuẩn bị cho tập thể quyết định. Khi đó, cá nhân thực hiện sai ở khâu nào thì quy trách nhiệm ngay ở khâu đó. Tập thể sai về quyết định nào thì tập thể chịu trách nhiệm ở quyết định đó (trừ những ý kiến bảo lưu của thành viên nhưng phải ghi rõ trong biên bản hội nghị). Có như vậy mới phát huy được vai trò của từng thành viên trong khi thực hiện trách nhiệm của tập thể và thực hiện nhiệm vụ cá nhân do tập thể phân công.

Sau khi đã có quyết định của tập thể, phải phân công đảng viên, cấp ủy viên thực hiện quyết định đó trong một thời gian xác định và kiểm tra, giám sát, đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện. Như vậy, cần thể chế hóa chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách bằng các quy chế, quy định cụ thể, để vừa giữ vững chế độ lãnh đạo tập thể, vừa tăng cường mạnh mẽ trách nhiệm cá nhân. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Để tránh tình trạng “nhiều sãi nhưng không ai đóng cửa chùa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán, cần thực hiện nguyên tắc: một người có thể được giao nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một người chịu trách nhiệm hoặc chủ trì thực hiện, tránh đổ lỗi cho nhau khi sai phạm. Đây cũng chính là hành động cụ thể, thiết thực theo phong cách “nói đi đôi với làm” của Người.

Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế làm việc để nguyên tắc tập trung dân chủ thực sự phát huy tác dụng.

Nhiều nơi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến mất dân chủ hay dân chủ hình thức đều do buông lỏng hoặc không kịp thời tiến hành kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Lãnh đạo của tổ chức đảng chủ yếu thông qua hội nghị triển khai và bố trí cán bộ chịu trách nhiệm cùng tiến hành kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Vì vậy, cần phải quan tâm hoàn thiện quy chế làm việc của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và thực hiện quy chế đó. Như vậy, kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là kiểm tra tính chặt chẽ, rõ ràng của quy chế làm việc. Đó là căn cứ để kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định của tập thể, kiểm tra kết quả việc thực hiện nhiệm vụ của cá nhân khi tập thể lãnh đạo phân công. Bên cạnh đó, tính dân chủ trong hoạt động của tổ chức đảng cũng thể hiện qua những ý kiến phát biểu được ghi lại trong biên bản cuộc họp. Tinh thần trách nhiệm của đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng cũng thể hiện qua các ý kiến phát biểu trong các cuộc họp, nên chúng phải được ghi lại đầy đủ, chính xác trong biên bản. Do đó, chỉ có thông qua kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên, trực tiếp đối thoại với họ thì mới có thể phát hiện những sai sót, lệch lạc so với nghị quyết cuộc họp, từ đó kịp thời nhắc nhở, uốn nắn; đồng thời, xử lý nghiêm minh, kịp thời những đảng viên, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Không thể thay đổi hay từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, nhưng rõ ràng là chỉ khi nào từng tổ chức đảng, mỗi đảng viên thống nhất nhận thức về vai trò, nội dung của nguyên tắc, đồng thời thực hiện tốt các giải pháp nêu trên thì nguyên tắc tập trung dân chủ mới đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác lãnh đạo của Đảng./.

(TCCS)

—————————————-

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 830
(2) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 5
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36, tr. 185

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.