Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ngăn chặn hành vi lợi dụng phạm pháp

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, nhận thức về tôn giáo của Đảng có nhiều đổi mới, phát triển. Bước ngoặt quan trọng mở ra giai đoạn mới trong nhận thức của Đảng được đánh dấu bằng Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Ảnh minh họa.

Nghị quyết khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (1).

Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng trong Nghị quyết 24, từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) đến nay, trải qua 5 kỳ đại hội, Đảng ta luôn có những bước phát triển về nhận thức, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhằm phát huy tốt nhất vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội; đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực cũng như các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trong Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội nhiệm kỳ 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025, Đảng ta nhận định:

“Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo” (2). Tuy nhiên, Đảng cũng chỉ rõ mặt còn hạn chế trong công tác quản lý tôn giáo, quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi.

Phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời khắc phục những mặt còn hạn chế về công tác tôn giáo, trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội” (3).

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, vấn đề dân tộc, tôn giáo có xu hướng diễn biến phức tạp, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo… là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo” (4).

Cụ thể hóa những nhiệm vụ trên, để đưa Nghị quyết XIII của Đảng vào cuộc sống, chúng ta cần thực hiện một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Trong quá khứ cũng như hiện tại, tôn giáo đã và đang có tác động tích cực đối với mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, nhằm khai thác có hiệu quả hơn nữa mặt tích cực của các tôn giáo, Đảng ta nhấn mạnh việc phát huy các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Trong đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh nguồn lực tinh thần của tôn giáo, phát huy những nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng, giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, góp phần giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, đồng thời “phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”.

Hai là, vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đoàn kết là truyền thống quý báu có từ ngàn xưa của dân tộc ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Để tiếp tục phát huy truyền thống, huy động mọi thành phần, giới chức xã hội đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta coi đoàn kết tôn giáo là một mục tiêu quan trọng. Đoàn kết tôn giáo được hiểu là đoàn kết giữa những người có đạo khác nhau, giữa người có đạo với người không có đạo. Đảm bảo sự tôn trọng, chung sống hòa hợp, không phân biệt đối xử, cùng chung trách nhiệm góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Để thực hiện tốt đại đoàn kết tôn giáo, cần tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách tôn giáo; đồng thời xây dựng những chính sách đặc thù để giải quyết khó khăn cho đồng bào có đạo. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, sự xích lại gần nhau của tôn giáo ngày càng rõ nét thì đoàn kết tôn giáo càng có ý nghĩa quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp đưa đất nước hội nhập và phát triển.

Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người.

Đây là nguyên tắc xuyên suốt, nhất quán trong chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng ở đây bao gồm sự quan tâm, tạo điều kiện cả trên thực tế và về mặt pháp lý đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật và bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Mặt khác, đối tượng được quan tâm, bảo đảm ở đây không chỉ là con người, tổ chức, nhân dân, công dân sinh sống ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo đang sinh sống, học tập, làm việc tại Việt Nam; kể cả người Việt Nam ở nước ngoài trở về quê hương sinh sống. Bằng những hành động thiết thực cụ thể, chúng ta tiếp tục đưa chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào các tôn giáo trong cả nước.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục cố tình xuyên tạc tình hình tôn giáo ở nước ta nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động chiêu bài đòi “tự do tôn giáo”… Cần chủ động nắm bắt tình hình để phát hiện và xử lý kịp thời các tình huống liên quan đến tôn giáo một cách hài hòa, không để bị động bất ngờ và không để xảy ra các “điểm nóng”. Để tăng cường tính chủ động, hệ thống chính quyền ở cơ sở và cơ quan chức năng cần thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào có đạo, nhất là những nơi có dấu hiệu bất ổn; từ đó tham mưu kịp thời và đưa ra những phương án xử lý phù hợp, hiệu quả. Mặt khác, cần chủ động quan tâm, lắng nghe và giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của đồng bào có đạo nhằm tranh thủ sự ủng hộ, đồng thời phát huy tối đa những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực và kiên quyết đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng nước ta.

Năm là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo. Để phát huy những mặt tích cực, đóng góp của tôn giáo, đồng thời ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng, việc nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với các hoạt động liên quan đến tôn giáo là hết sức cần thiết, cấp bách. Các cơ quan quản lý hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo cần nắm vững những nhận thức mới của Đảng về tôn giáo để cụ thể hóa thành chính sách, thể chế hóa thành luật pháp của Nhà nước; nắm bắt kịp thời âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá chế độ để tham mưu với Đảng, Nhà nước có những đối sách cụ thể, phù hợp. Phát huy và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Có thể nói, quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ liên quan đến tôn giáo và công tác tôn giáo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là toàn diện, có nhiều điểm mới. Đây chính là cơ sở cho những định hướng trong việc đề xuất và thực thi các chính sách tôn giáo, nhằm phát huy tối đa nguồn lực của các tôn giáo, hạn chế những tác động tiêu cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại sự ổn định và sự phát triển đất nước.

______________________________________

1: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị khóa VI, ngày 16/10/1990, tr.2.

2: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 2, tr.45.

3: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.272.

4: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 2, tr.141.

PGS.TS. Bùi Thị Tỉnh – Học viện Chính trị CAND

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *