Thực tiễn sinh động khẳng định nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Lợi dụng việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần để đánh giá, công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam, một số chính khách, học giả Mỹ đã tung ra nhận định, đánh giá thiếu khách quan, xuyên tạc đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thời gian vừa qua, lợi dụng việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần để đánh giá, công nhận quy chế kinh tế thị trường (KTTT) đối với Việt Nam, một số chính khách, học giả Mỹ đã tung ra nhận định, đánh giá thiếu khách quan, xuyên tạc đường lối phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về KTTT, xuyên tạc thể chế chính trị, nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó họ lấy cớ gây sức ép để Mỹ và các nước đồng minh không công nhận nền KTTT ở Việt Nam, qua đó hòng chống phá nền kinh tế Việt Nam và quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam – Hoa Kỳ.
Các vị này nêu vấn đề, Việt Nam hiện không đáp ứng được với những tiêu chuẩn căn bản về quyền của người lao động; nền kinh tế của Việt Nam: “Không phải là nền KTTT, bị Đảng Cộng sản Việt Nam bóp méo và nếu Mỹ công nhận KTTT thì sẽ rất lố bịch; Việt Nam có thành tích thất bại và đó là vì sao Mỹ cần đứng về phía người dân hay vì Nhà nước”; từ đó, kêu gọi chính quyền không cấp quy chế KTTT đối với Việt Nam. “Tát nước theo mưa”, các thế lực thù địch đã tung các video, bài viết xuyên tạc về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Họ còn tổ chức nhiều cuộc “tọa đàm, hội luận” nhằm kêu gọi các tổ chức, cá nhân có ảnh hưởng gây sức ép với chính quyền Mỹ từ chối công nhận quy chế KTTT ở Việt Nam.
Ngày 3/8/2024, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ tiếp tục xác định Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết, trong thời gian qua, các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam đã cung cấp nhiều tài liệu, hồ sơ cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ khẳng định kinh tế Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ 6 tiêu chí KTTT theo quy định của luật pháp Hoa Kỳ.
Điều này cũng được nhiều hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia Hoa Kỳ và quốc tế ủng hộ. Trên thực tế, đến nay, có 72 quốc gia đã công nhận Việt Nam có nền KTTT. Các tổ chức quốc tế đều ghi nhận những bước tiến vượt bậc của kinh tế Việt Nam. “Trên tinh thần quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện cam kết về việc phối hợp rộng rãi, mạnh mẽ, mang tính xây dựng và tiến tới sớm công nhận quy chế KTTT của Việt Nam. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ bảo đảm quan hệ kinh tế, thương mại song phương tiếp tục phát triển ổn định, hài hòa, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai nước” – Người phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu rõ.
Khái niệm KTTT định hướng XHCN được chính thức sử dụng trong các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001). Và cũng từ Đại hội này, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Văn kiện Đại hội IX xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền KTTT định hướng XHCN”1.
Với mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất để từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; Đại hội Đảng lần thứ XII đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2; đồng thời nhấn mạnh: “Nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”3.
Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc. Nhờ vậy, qua gần 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội; nước ta đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển; kinh tế tăng trưởng ổn định, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 – 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1986 – 2022, GDP Việt Nam đã tăng gấp 50 lần, đạt khoảng 406,45 tỷ USD, lọt top 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới.
Ước tính năm 2023, GDP Việt Nam đạt 430 tỷ USD, tăng 5,05% so với năm 2022. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ đôla Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 đôla Mỹ năm 2023. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 10%/năm. Năm 2022, xuất khẩu đạt khoảng 371,5 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2021. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam lập kỷ lục mới, vượt mốc 730 tỷ USD, đứng trong 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả bảng xếp hạng quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Chỉ số về trình độ phát triển của thị trường Việt Nam tăng 12 bậc so với năm 2020, từ vị trí thứ 34 lên vị trí thứ 22.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước; có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác (trong đó, có 72 nước đã công nhận Việt Nam là nền KTTT, gồm các quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới như Canada, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh…). Việt Nam cũng đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với hơn 60 đối tác thương mại trên thế giới.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một nội dung trọng tâm, được khẳng định một cách nhất quán, xuyên suốt, rõ ràng về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng, vận hành. Đặc trưng cơ bản của nền KTTT ở Việt Nam phát triển vì mục tiêu phát triển con người, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong KTTT ở Việt Nam; gắn kinh tế với xã hội, đảm bảo sự phát triển của xã hội, vì mục tiêu phát triển con người. Điều đó thể hiện bản chất tốt đẹp, tính nhân văn của chế độ xã hội; thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Mỗi chính sách kinh tế được xây dựng, thực hiện đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng cần nghiêm túc nhìn nhận rằng, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn có những vướng mắc, bất cập. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Thể chế KTTT định hướng XHCN còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo”4.
Tuy nhiên, điều này không ảnh hưởng đến các tiêu chí của nền KTTT ở nước ta; chính các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học uy tín quốc tế cũng đã khẳng định và ghi nhận. Luật sư Eric Emerson, Công ty luật Steptoe LLP có trụ sở tại Washington (Mỹ) đã nhấn mạnh, Việt Nam đã đáp ứng đủ 6 tiêu chí mà Bộ Thương mại Mỹ sử dụng để công nhận một nền KTTT. Việt Nam đã chứng minh hiệu quả hoạt động của mình trên các yếu tố theo luật định tốt hoặc thường tốt hơn các nền kinh tế đã được áp dụng quy chế KTTT.
Là chính khách, học giả có nhiều năm gắn bó với Việt Nam, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius – Chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN đánh giá: “Việt Nam đã là nền KTTT rồi. Việt Nam đáp ứng tốt các tiêu chí quan trọng như khả năng chuyển đổi của tiền tệ và sẵn sàng để được công nhận một cách chính xác. Doanh nghiệp Mỹ đầu tư mạnh tay vào Việt Nam vì nhận thấy tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế này”.
Từ thực tiễn phát triển đất nước những năm qua đã chứng minh rằng, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ; vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường…
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong phát triển kinh tế những năm qua đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thiết nghĩ, các chính khách, học giả Mỹ và Bộ Thương mại Hoa Kỳ cần nhận định đúng đắn, khách quan về nền KTTT và thành tựu phát triển kinh tế đã đạt được ở Việt Nam để góp phần phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, xứng tầm “Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững”.
Tân Long/CAND
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2001, tr.86.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016, tr.102
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, t. I, tr. 59-60
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t1, tr.80