Vạch trần sự sai trái của luận điểm “Chủ nghĩa Mác đã cáo chung”

Trước sự thoái trào tạm thời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở cuối thế kỷ XX, các thế lực thù địch, phản động ra sức cổ vũ cho luận điểm “Chủ nghĩa Mác đã cáo chung”(!). Tuy nhiên, thực tiễn sinh động của thế giới và Việt Nam ngày nay lại chứng tỏ chủ nghĩa Mác vẫn tràn đầy sức sống. 

Xuyên tạc, phủ nhận giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác là một thủ đoạn thường trực của các thế lực thù địch, phản động. Ngay từ khi chủ nghĩa Mác xuất hiện trên vũ đài chính trị thế giới với bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848), các thế lực trong thế giới tư bản đã tỏ rõ nỗi sợ hãi và sự căm thù đối với phong trào cộng sản đang hình thành và ngày một phát triển sâu rộng trước ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, coi đó như “Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu”. “Bóng ma” ấy đã khiến cho các thế lực trong thế giới tư bản phải “liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử”1, như C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra khi nói về bối cảnh ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

Sở dĩ chủ nghĩa Mác chịu nhiều sự công kích của các thế lực thù địch, phản động, bởi lý luận của C. Mác đụng chạm đến “cái tín điều” bất khả xâm phạm của chủ nghĩa tư bản là chế độ tư hữu. Đúng như giáo sư Terry Eagleton (Trường Đại học Tổng hợp Lancaste của nước Anh)2 đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác, từ bao lâu nay vẫn là sự phê phán phong phú nhất về mặt lý luận, không khoan nhượng nhất về mặt chính trị đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa”3. Trước sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ vào cuối thế kỷ XX; cùng với đó là những biểu hiện thích nghi mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự công kích của các thế lực thù địch, phản động càng trở nên quyết liệt. Họ hoan hỷ tuyên bố về “sự cáo chung của chủ nghĩa Mác” và cho rằng: “chủ nghĩa Mác giờ đây đã chết, không cần phải nhắc đến nữa”(!).

Ở Việt Nam, hùa theo các thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài, các thế lực thù địch, phản động và “trở cờ” ở trong nước cũng lợi dụng mạng xã hội để tung ra các bài viết với mọi lý lẽ xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác. Họ “khuyên” Đảng ta từ bỏ chủ nghĩa Mác, không nên lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, vì theo họ “chủ nghĩa Mác đã cáo chung, không còn giá trị chỉ đạo thực tiễn”(!), v.v. Mục tiêu nhất quán của các lý lẽ sai trái nói trên đều nhằm mục đích tạo ra khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên của Đảng, cũng như trong toàn xã hội, để từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và trong xã hội, tiến tới làm tan rã Đảng ta, đưa nước ta phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Trước tác động từ những luận điệu xuyên tạc, sai trái này, ở những mức độ khác nhau, đã có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, thậm chí có biểu hiện mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lênin. Do vậy, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác, vạch trần sự sai trái của các luận điểm xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác là hết sức cần thiết, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Trước hết, cần khẳng định rằng, cho đến ngày nay, chủ nghĩa Mác vẫn là lý luận khoa học và cách mạng nhất, có giá trị nhất trong việc luận giải các vấn đề cơ bản của thời đại. Ngay cả Brêdinxki, tác giả cuốn sách “Thất bại lớn – sự hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX”, người rất căm ghét chủ nghĩa Mác, cũng phải thừa nhận giá trị của chủ nghĩa Mác, khi viết rằng: “Khái niệm về phép biện chứng lịch sử xem chừng là phương pháp giá trị nhất để xử lý các mâu thuẫn hiện thực”4. Đúng như vậy, với hai phát kiến vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã thực hiện những cuộc cách mạng triệt để trong lĩnh vực triết học và kinh tế chính trị học. Bằng việc sử dụng phép duy vật biện chứng, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác đã vạch ra những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Đó là: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở kinh tế – xã hội quyết định kiến trúc thượng tầng của xã hội; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, C. Mác đã tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra – quy luật giá trị thặng dư. Đồng thời, trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, cũng như những điều kiện chính trị – xã hội trong xã hội tư bản, C. Mác đã lần đầu tiên phát hiện ra và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện sứ mệnh giải phóng chính bản thân mình, tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại.

Mặc dù thế giới ngày nay đã có nhiều thay đổi, song những quy luật mà chủ nghĩa Mác đã phát hiện và khái quát vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo thực tiễn. Phản bác lại luận điểm cho rằng: “Hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thay đổi nhiều đến mức không còn nhận biết được nữa so với thời của Mác, và do đó những tư tưởng của Mác không còn phù hợp nữa”, Terry Eagleton đã nhận định: “bản thân Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống mà ông phản bác” và rằng: “Chính những cái tưởng như giúp đả phá chủ nghĩa Mác lại cũng làm tăng thêm niềm tin vào những khẳng định của chủ nghĩa Mác. Nó được đẩy đến cực điểm bởi vì trật tự xã hội mà chủ nghĩa Mác đương đầu, thay vì trở nên nhân từ và ôn hòa hơn, thì lại trở thành tàn nhẫn và cực đoan hơn bao giờ hết. Và chính điều này làm cho sự phê phán của Mác đối với toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa thành đúng đắn hơn”5. Các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong những năm 2007 và 2008 xuất phát từ các nước tư bản; phong trào “Chiếm phố Uôn” với biểu ngữ “99% người nghèo chống lại 01% người giàu” lan rộng ở nhiều nước tư bản phát triển trong những năm 2009 và 2011 đã chứng minh cho phát hiện của C. Mác về những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn còn nguyên giá trị và nhận định nói trên của Terry Eagleton là hoàn toàn đúng đắn. Trong thời gian này, nhiều người trong thế giới tư bản đã quay lại tìm đọc Mác; nhiều trung tâm nghiên cứu về C. Mác và nhiều cuộc hội thảo về C. Mác đã được tổ chức ở các nước tư bản. “Tư bản luận” đã trở thành sách bán chạy ở Pháp, Đức, Anh, Italia, Nhật Bản6, v.v. Giải thích cho hiện tượng đó, nhà sử học người Anh Erích Hoxbon đã nói rằng: “Chính là những người tư bản, chứ không phải ai khác, đã tái phát hiện Mác” và “Việc quay trở lại đọc Mác có nghĩa là thế giới cần phải nghiên cứu học thuyết của ông về chủ nghĩa tư bản, và về vị trí của học thuyết đó trong sự phát triển của xã hội loài người”. Một số học giả tư sản cũng đã tiên đoán về thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của chủ nghĩa Mác và kêu gọi nhân loại hãy “Trở về với Mác”, rằng nhân loại “không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của Mác”7. Những thực tiễn đó là minh chứng sống động bác bỏ luận điểm cho rằng “chủ nghĩa Mác đã cáo chung” và chứng tỏ chủ nghĩa Mác vẫn là lời giải cho thế giới hiện thực.

Thứ hai, thực tiễn sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu những năm cuối thế kỷ XX không đồng nghĩa với “sự cáo chung” của chủ nghĩa Mác. Đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, mà nguyên nhân căn bản lại xuất phát từ chủ nghĩa giáo điều, xét lại và những sai lầm trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở Liên Xô thời kỳ đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau gần 20 năm Liên Xô sụp đổ, công trình “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô – lịch sử những âm mưu và phản bội 1945 – 1991” của A.P. Sheviakin đã công bố lời thú nhận của M.S. Gorbachev tại Trường Đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1999 rằng: “Mục tiêu của toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản… Khi trực tiếp làm quen với phương Tây, tôi đã hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đặt ra”8. Điều đó cho thấy, sự thoái trào tạm thời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không có nguyên nhân từ bản thân chủ nghĩa Mác; không đánh dấu “sự cáo chung” của chủ nghĩa Mác. Mặt khác, chính sự kiện này lại chứng tỏ: đảng nào xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, thì đảng đó không còn là đảng mácxít lêninnít chân chính và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nơi đó nhất định thất bại.

Thứ ba, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rõ: chủ nghĩa Mác  Lênin là ngọn đèn soi sáng con đường đấu tranh giành độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta; là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Nhìn lại lịch sử cách mạng nước ta từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy, chỉ đến khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp cận được chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền bá vào Việt Nam, kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, thì mới kết thúc được thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước của dân tộc ta, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; và ngày nay, đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư duy đổi mới. Đại hội VII của Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”9; đồng thời, nhấn mạnh đến bài học kinh nghiệm rút ra qua thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay là: “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”10. Tại Đại hội XIII, một trong năm bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra qua nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cũng là quan điểm chỉ đạo hàng đầu trong thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới là “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”11. Nhờ có sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay12. Từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến, không có tên trên bản đồ thế giới, ngày nay nước ta đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc; đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với gần 30 nước, bao gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế – thương mại và đầu tư với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều định chế kinh tế quốc tế lớn; 02 lần đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; 02 lần được bầu làm Ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và còn đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong các tổ chức quốc tế khác. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình với quy mô và tiềm lực kinh tế không ngừng tăng lên. Nếu năm 1989, quy mô nền kinh tế của đất nước chỉ là 6,3 tỉ USD, thì năm 2022 đã đạt 409 tỉ USD, đứng thứ 37 nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ năm trong ASEAN và trong nhóm 14 nước châu Á. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ đạt khoảng 250 USD/năm, thì đến năm 2022 đã đạt 4.110 USD, đứng thứ năm trong ASEAN. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không chỉ luôn kiên định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, mà còn góp phần làm phong phú thêm lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin; nhất là những vấn đề về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước có nền kinh tế chậm phát triển, v.v.

Những thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở những nước đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng; cùng với những nỗ lực đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của các đảng cộng sản và công nhân thế giới hiện nay là minh chứng sinh động bác bỏ sự sai trái của luận điểm “chủ nghĩa Mác đã cáo chung”; đồng thời, khẳng định sức sống bất diệt của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay.

NGUYỄN NGỌC HỒI/TCQPTD
_____________

1 – C. Mác và Ph. Ăngghen – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 595.

2 – Tác giả cuốn sách Tại sao Mác đúng? do Trường Đại học Tổng hợp Yale của Mỹ xuất bản năm 2011.

3 – Terry Eagleton – Tại sao Mác đúng? Lời nói đầu, http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/truong-phai-triet-hoc/chu-nghia-marx/tai-sao-marx-dung.

4 – Lưu Đình Á – Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh thế giới không có khói súng, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 129.

5 – Terry Eagleton – Tại sao Mác đúng? Chương I: Chủ nghĩa Mác đã lỗi thời? http://triethoc.edu.vn/vi/ chuyen-de-triet-hoc/truong-phai-triet-hoc/chu-nghia-marx/ tai-sao-marx-dung.

6 – Theo Giám đốc Nhà xuất bản Berlin Karl-Dietz (nơi giữ bản quyền các tác phẩm của C. Mác): “Tư bản luận” bán ra trong tháng 10/2008 tăng gấp ba lần so với năm 2005, mà khối độc giả đông nhất là giới trẻ. Ở Italia, Nhà xuất bản Niu-tơn Com-tơn cũng bán được 5.000 bộ “Tư bản”; ở Nhật Bản, truyện tranh chuyển thể từ “Tư bản luận” bán được 6.000 bản chỉ trong hai tuần đầu tháng 12/2008.

7 – Giắc-cơ Đê-ri-đa – Những bóng ma của Mác, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 16.

8 – Tống Thế Gia – Vì sao Liên Xô sụp đổ – Báo Thời Nay, số 2, ngày 07/01/2010.

9 – ĐCSVN – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb ST, H. 1991, tr. 21.

10 – Sđd, tr. 05.

11 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 95 và tr. 109.

12 – Sđd, Tập I, tr. 104.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *