Đảng viên không gương mẫu – một biểu hiện của “tự suy thoái”

Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên không chỉ góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, mà còn củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng. Đảng viên không gương mẫu là biểu hiện của “tự suy thoái”, nên cần tích cực đấu tranh với biểu hiện này.

Ảnh minh họa.

Đảng Cộng sản Việt Nam được Nhân dân tin yêu gọi là “Đảng ta”. Bởi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh, dù khó khăn gian khổ đến đâu thì đảng viên của Đảng đều nêu cao tinh thần gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, gây bức xúc trong nhân dân. Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết là do những cán bộ, đảng viên này không gương mẫu, dẫn đến “tự suy thoái”.

Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hoàn thành sứ mệnh vẻ vang khi mỗi cán bộ, đảng viên luôn nêu cao tinh thần gương mẫu, đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh khi Đảng cần. Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”1. Theo Người: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”2. Điều đó có nghĩa: một người dù tài giỏi đến đâu mà không thực hành nêu gương thì cũng không thuyết phục được người khác; cán bộ, đảng viên nếu không gương mẫu thì sẽ mất đi vai trò lãnh đạo, tổ chức quần chúng. Vì thế, Đảng ta luôn đề cao nêu gương, coi đó là một phương thức lãnh đạo. Mọi cán bộ, đảng viên phải luôn làm mực thước để đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống. Bác đã dạy: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”3. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ góp phần thực hiện phương thức lãnh đạo của Đảng mà còn xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Trước mọi người, điều quan trọng nhất với mỗi cán bộ, đảng viên là phải tạo ra sự gần gũi, yêu mến, tin tưởng, có như vậy Đảng mới tập hợp được đông đảo quần chúng thành một khối thống nhất có sức mạnh vô biên để vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng vẻ vang.

Với nhãn quan chính trị thiên tài, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống của những người có chức, có quyền. Người cảnh báo: “Có thể những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi. Cho nên bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy”4. Theo Người: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”5. Lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Người cho thấy việc cán bộ, đảng viên không gương mẫu, dẫn đến vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, có tác hại vô cùng to lớn. Để tăng cường trách nhiệm nêu gương, đẩy lùi nguy cơ “tự suy thoái” của cán bộ, đảng viên hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác, tự nguyện nêu gương mọi lúc, mọi nơi. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã chỉ rõ nguyên nhân một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu: “Trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”6. Khắc phục những hạn chế này, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi nêu gương là một biện pháp cơ bản để củng cố lòng tin của nhân dân và đẩy lùi những hạn chế, khuyết điểm của bản thân; trước hết, phải nêu gương về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đó là phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, việc gì có lợi cho nhân dân thì phải ra sức làm, việc gì có hại cho nhân dân phải hết sức tránh. Thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, gần gũi quần chúng, “ít lòng ham muốn về vật chất” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phải ra sức học tập và làm theo tác phong nêu gương của Người, nêu gương trong mối quan hệ với mình, với người, với việc; tiến hành thường xuyên, liên tục; thực chất chứ không hình thức. Đó là yêu cầu cơ bản để việc nêu gương phát huy tác dụng trong công tác và cuộc sống, chiếm được lòng tin yêu của nhân dân. Nêu gương phải là hành động thuộc về bản chất của mỗi cán bộ, đảng viên chứ không phải là việc làm nhất thời. Đồng thời, phải động viên, nhắc nhở người thân của mình thực hiện, như vậy mới không sợ “há miệng mắc quai” và nhân dân mới tin tưởng.

Hai là, kiên quyết, kiên trì thực hiện nghiêm túc các quy định về nêu gương. Thực hiện chủ trương này, Đảng ta đã ban hành một số quy định cụ thể để phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, như: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, ngày 25/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quy định số 08-QĐi/TW, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Các quy định này đã xác định rõ trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Sự nêu gương của người đứng đầu bao giờ cũng có sức lan tỏa mạnh mẽ trong bộ máy để cấp dưới làm theo, sẽ tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội, từ đó củng cố lòng tin của Nhân dân với Đảng. Việc thực hiện các quy định về nêu gương cần gắn liền với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện các quy định về nêu gương. Có kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiêm túc, chống hình thức, coi nhẹ việc thực hiện các quy định về nêu gương.

Ba là, thường xuyên thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; tuyên truyền nhân rộng gương “người tốt, việc tốt”. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là biện pháp quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Vì vậy, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên hiện nay chỉ thực sự đạt chất lượng, hiệu quả khi tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc; kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên thực hiện tốt các quy định về nêu gương. Đồng thời, phát hiện, xử lý nghiêm những người thiếu gương mẫu, vi phạm các quy định, kỷ luật của Đảng, của tổ chức, đoàn thể, kiên quyết không có vùng cấm để răn đe, cảnh tỉnh những cán bộ, đảng viên khác.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo, duy trì chặt chẽ chế độ tự phê bình và phê bình, gắn với phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương và thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Gắn kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên và nhận xét, đánh giá, sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ với kiểm điểm tự phê bình và phê bình việc phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tự giác “tự soi”, “tự sửa” thường xuyên trong công việc hằng ngày, mọi lúc, mọi nơi, từ tư tưởng, nhận thức đến hành động, từ việc lớn đến việc nhỏ,… qua đó kịp thời thấy rõ và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, ngày càng hoàn thiện bản thân.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bởi “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”7; “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”8. Tiến hành có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát sẽ phát huy được ưu điểm, phát hiện và ngăn ngừa hạn chế, khuyết điểm, không để cho hạn chế, khuyết điểm kéo dài, gây hại cho tổ chức, cá nhân, bảo đảm cho bộ máy luôn trong sạch. Do vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Nội dung phải toàn diện, song cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là sự gương mẫu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thái độ, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, v.v. Phát phát huy vai trò của cấp ủy, chi bộ, ủy ban kiểm tra các cấp, của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn vị. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò giám sát của các đoàn thể chính trị – xã hội, Mặt trận Tổ quốc các cấp và Nhân dân đối với việc nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Đẩy lùi “tự suy thoái” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn mẫu mực, tiêu biểu không chỉ trong công tác mà còn cả trong sinh hoạt đời thường. Thực hành nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên là cam kết chính trị với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, góp phần xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức.

Đại tá, TS. NGUYỄN HUY HOÀNG/TCQPTD

—————————————–

1 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 672.

2 – Sđd, Tập 1, tr. 284.

3 – Sđd, Tập 6, tr. 16.

4 – Sđd, Tập 9, tr. 46 – 47.

5 – Sđd, Tập 15, tr. 672.

6 – ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 24 – 25.

7 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 362.

8 – Sđd, Tập 5, tr. 327.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *