Lật tẩy “màn ảo thuật” cổ xúy thay đổi chế độ chính trị của những giọng điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở Việt Nam
Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch diễn ra trên tất cả các mặt của ý thức xã hội. Trong đó, chung quanh vấn đề nhận thức và giải quyết của Đảng ta về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là một trong những tiêu điểm công kích, chống phá và xuyên tạc của kẻ thù. Vì vậy, nhận diện đúng để xác định trúng những luận cứ khoa học nhằm đấu tranh phê phán, bác bỏ những luận thuyết, âm mưu và hành động nói trên của các thế lực thù địch trở thành một trong những vấn đề trọng tâm của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận hiện nay.
Những giọng điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Trong âm mưu và luận điệu xuyên tạc, chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đã và đang có những “lý sự” xuyên tạc rằng: Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam chỉ mang tính chất nửa vời, chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam “không dám” thực hiện đổi mới chính trị, vì sợ bị mất “cây gậy quyền lực”, bị “thay máu” bản chất chế độ… Chúng còn rêu rao rằng, đổi mới chính trị ở Việt Nam “lệch pha”, không đồng bộ, không tương xứng so với đổi mới kinh tế; đổi mới ở Việt Nam chẳng qua là sự “học đòi”, “bắt chước” một cách khiên cưỡng công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Trung Quốc, nên tất yếu sẽ đi đến “kết cục” đổ vỡ cả kinh tế lẫn chế độ chính trị mà thôi.
Tinh vi và xảo quyệt hơn, có quan điểm còn vin vào nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin là “kinh tế quyết định chính trị” để trắng trợn tuyên bố rằng, về mặt kinh tế đã là kinh tế thị trường, kinh tế đa thành phần và nhiều hình thức sở hữu thì nhất thiết tương ứng với nó về mặt chính trị phải là chế độ đa nguyên, đa đảng. Chúng xuyên tạc rằng, ở Việt Nam thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần nhưng chính trị lại duy trì chế độ độc đảng, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo “chuyên quyền” của Đảng Cộng sản, đó là sự pha trộn giữa “dầu với nước”, chắc chắn sẽ kém hiệu quả. Chúng còn lợi dụng một số yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, quản lý và điều hành đất nước, nhất là tình trạng tham nhũng, lãng phí, sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,… để xuyên tạc rằng, không có đa nguyên sẽ không có đấu tranh và điều đó sẽ làm cho hệ thống chính trị không thể đổi mới, mưu toan đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi Chính phủ Việt Nam vận dụng các lý thuyết, trường phái kinh tế học tư sản mới giúp tránh được sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường, tức là tránh được sự can thiệp của chính trị vào kinh tế.
Những luận điệu kể trên là một “tư duy thiển cận”, sự nhận thức mơ hồ, phiến diện, bộc lộ rõ những ý đồ chính trị hết sức thâm độc với mục đích cổ xúy, kích động cho sự hình thành các tổ chức chính trị phản động đối lập với Đảng, Nhà nước ta, tiến hành tạo phản, lật đổ, gây bất ổn định chính trị – xã hội ở Việt Nam…
Những luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến chiều hướng, nội dung, nhịp độ, hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia đang tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới; đồng thời, quyết định vận mệnh chính trị của các đảng phái và các thể chế chính trị đương thời. Đối với Việt Nam, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới cho đến nay, chúng ta luôn coi trọng hàng đầu việc giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Trên thực tế, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại,… trong một tổng thể thống nhất. Tuy nhiên, bước đi của đổi mới là vấn đề vô cùng nhạy cảm và hệ trọng. Theo đó, quan điểm của Đảng ta là đổi mới toàn diện, nhưng đặt trọng tâm vào đâu, lĩnh vực nào đi trước, lĩnh vực nào đi sau,… để bảo đảm cho đổi mới vận hành đúng hướng, giành thắng lợi, đòi hỏi một tư duy lý luận sâu sắc và nghệ thuật lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng ta đã cân nhắc cẩn trọng, lựa chọn và ưu tiên tập trung giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đặc biệt, xuyên suốt quá trình đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một “nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay”(1).
Xét trên tổng thể, “Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác”(2). Mặt khác, Đảng cũng nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,… là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho công cuộc đổi mới nói chung đi tới thắng lợi”(3). Đó còn là ban hành Hiến pháp mới (năm 1992 và năm 2013), hàng trăm đạo luật, pháp lệnh bảo đảm cho đổi mới kinh tế; đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cả về lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy tốt hơn vai trò của nhân dân, thực hành dân chủ về chính trị, huy động nhân dân vào công tác quản lý nhà nước, giám sát và phản biện xã hội. Những đổi mới đó phải chăng không phải là đổi mới chính trị? Không có những đổi mới chính trị đồng bộ đó thì không thể có thành tựu đổi mới kinh tế như đã thấy. Song, đổi mới chính trị không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, đúng như Đảng ta đã xác định rõ: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân”(4). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (tháng 1-2015): Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng gây phiền hà cho dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Suy đến cùng, thực chất của đổi mới chính trị là đổi mới tư duy nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới cơ chế, chính sách mà hạt nhân cơ bản là giải quyết hợp lý, hài hòa quan hệ lợi ích; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó một lần nữa khẳng định, công cuộc đổi mới ở Việt Nam vừa có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính trị.
Mặt khác, dựa trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị, chúng ta sẽ có đủ luận cứ, luận chứng để phản bác các mưu đồ thâm độc, tinh vi nói trên của các thế lực thù địch. Trong đó, lý luận mác-xít đã chỉ ra rằng, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kinh tế quyết định chính trị. Nhưng một điều hết sức quan trọng nữa cần nhắc lại là các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lê-nin không bao giờ xem kinh tế là yếu tố duy nhất. Như Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh: “Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”(5). Và sau này V. I. Lê-nin một lần nữa khẳng định “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Điều đó có nghĩa, chính trị hoàn toàn không chỉ là gương phản chiếu đời sống kinh tế, mà là sự “biểu hiện tập trung” của kinh tế. Chính trị phản ánh mang tầm khái quát, làm bộc lộ cái bản chất nhất của đời sống kinh tế, cái cơ bản nhất, cái mang tính chi phối trong đời sống kinh tế. Chính loại yếu tố đó quy định nội dung căn bản nhất của chính trị thuộc chủ thể cầm quyền. Cho nên, không phải kinh tế có kết cấu đa dạng như thế nào thì chính trị cũng có sự đa dạng tương ứng như thế.
Hơn nữa, “trong những nước thực hiện đa nguyên chính trị, hay đa đảng chính trị, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại họ cũng không thể hiểu kinh tế có bao nhiêu thành phần thì chính trị có bấy nhiêu tổ chức chính trị khác nhau”(6). Hơn thế nữa, có những nước chỉ có một thành phần kinh tế hay một phương thức sản xuất nhưng lại có tới hai, thậm chí nhiều tổ chức chính trị khác nhau. Các tổ chức chính trị này đều thuộc cùng một giai cấp, nhưng họ lại luôn tranh giành quyền bính và chẳng khác nào như những lực lượng đối lập trong xã hội.
Trong khi đó, thực tiễn lịch sử Việt Nam đã minh chứng, xét về mặt kinh tế, không hề có cơ sở để nảy sinh chế độ chính trị đa nguyên. Vì, trong các thành phần kinh tế ở nước ta, kinh tế tư bản (nhất là kinh tế tư bản tư nhân) chưa bao giờ giữ được vị trí thống trị. Chế độ phong kiến ở Việt Nam tồn tại hàng nghìn năm cũng không tạo ra được thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong lòng nó. Kinh tế tư bản chủ nghĩa kiểu thực dân ở nước ta được du nhập cùng với chế độ thuộc địa trước đây. Do đó, những nhà tư sản đầu tiên là tư sản Pháp, sau đó dần dần mới xuất hiện các nhà tư sản người Việt. Tuy nhiên, giai cấp tư sản này ngay khi mới hình thành đã bị tư sản Pháp chèn ép, cùng với đó là hoàn cảnh của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nên giai cấp tư sản Việt Nam bị phân hóa thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Trong đó, “tư sản mại bản gắn bó với đế quốc nước ngoài. Tư sản dân tộc chỉ phát triển rất hạn chế. Ngay cả những nhà tư sản yêu nước cũng không đủ sức lãnh đạo đất nước giành độc lập. Sứ mệnh này phải do giai cấp công nhân mà lực lượng tiên phong của nó là Đảng Cộng sản đảm nhận”(7).
Qua 35 năm đổi mới, gắn với nền kinh tế nhiều thành phần, ở Việt Nam đã và đang định hình khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh, được Đảng và Nhà nước tôn trọng, khuyến khích phát triển, đem lại nhiều kết quả ích nước, lợi nhà, nhưng phần lớn vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Đội ngũ doanh nhân ngày càng đông đảo, có vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Nhưng cần thấy rằng, trong điều kiện có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì mối quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp (kể cả quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động trong doanh nghiệp tư nhân) không giống như trong chế độ do giai cấp bóc lột nắm chính quyền. Bằng hàng loạt các công cụ trong tay của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ hệ thống pháp luật, chính sách (quy hoạch, thuế, tín dụng, thương mại, đầu tư…), kinh tế nhà nước gắn với nguồn lực nhà nước (đất đai, đầu tư công, vốn trong doanh nghiệp nhà nước) đến các biện pháp hành chính, tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân,… bảo đảm phát huy mặt tích cực, giảm thiểu mặt tiêu cực của kinh tế tư nhân, giữ vững định hướng đóng vai trò quyết định bảo đảm cho sự thắng thế của yếu tố xã hội chủ nghĩa đối với yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, trong đó có yếu tố tư bản chủ nghĩa, vốn vẫn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh rất khó khăn, phức tạp.
Mặt khác, cần khẳng định rằng, chúng ta thực hiện đổi mới nhưng kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đích thực. Đổi mới để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn chứ không phải quay lại chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường tự do, nhà nước pháp quyền (tư sản) và đa nguyên chính trị là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng ta không đi theo hướng đó vì nó không phù hợp và không đáp ứng nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”… Với những cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động, đầy thuyết phục nói trên, có thể nhất quán khẳng định, chúng ta thực hiện kinh tế đa thành phần nhưng vẫn bảo đảm nhất nguyên về chính trị, giữ vững vai trò và sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp lý, đúng đắn.
Đặc biệt, qua 35 năm đổi mới, “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8). Thành tựu đó là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, nhiều nhân tố, nhưng giữ vai trò quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, nổi bật là sự sáng tạo và độc đáo của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, song nếu chỉ dựa vào những khiếm khuyết (mặt thứ yếu, không cơ bản) của vấn đề này mà lại vội vàng quy chụp cho rằng, ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; hoặc đổi mới chính trị “lệch pha” so với đổi mới kinh tế,… thì quả là một sự “ngụy biện” lố bịch; một sự xuyên tạc, bóp méo trắng trợn, thô thiển của các thế lực thù địch. Bởi vì, sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, sự thống nhất biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nét độc đáo riêng có của Việt Nam, hoàn toàn khác với Liên Xô, với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, và Trung Quốc hiện nay.
Nếu như ở Liên Xô, ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào cải tổ chính trị vô nguyên tắc, nêu ra “dân chủ hóa”, “công khai hóa”, thúc đẩy vô chính phủ, làm xuất hiện các lực lượng đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng. Xét đến cùng, đây là sự vô hiệu hóa Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên bang Xô-viết.
Ở Việt Nam, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định: “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”(9); “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”(10); “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”(11)… Điều đó có nghĩa, ở Việt Nam, đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà theo một định hướng chính trị nhất định, một cơ sở khoa học đầy đủ. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vừa là cơ sở của nhau, vừa là điều kiện để triển khai sâu rộng và vững chắc công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đối ngoại, quốc phòng – an ninh,… Đổi mới, phát triển kinh tế tạo ra môi trường và điều kiện để củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, là nhân tố suy đến cùng quyết định sự ổn định chính trị – xã hội. Ngược lại, đổi mới chính trị tạo ra cơ sở chính trị – pháp lý cho sự phát triển kinh tế; đồng thời, tạo động lực và gia tăng sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế.
Với những luận cứ, cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên chứng minh một cách rõ ràng rằng, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn song hành, hỗ trợ, bổ sung cho nhau; làm cơ sở, tiền đề, điều kiện của nhau; giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ với nhau.
Một số yêu cầu đặt ra về đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta trong thời gian tới
Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận xung quanh mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta đã, đang diễn ra khó khăn, phức tạp. Trong những năm tới, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu, với những diễn biến khó khăn hơn, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài,… đan xen một cách phức tạp. Đặc biệt là sự gia tăng những âm mưu, thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt hơn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Tình hình đó đặt ra những yêu cầu cơ bản, cấp thiết đối với cuộc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta như sau:
Một là, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức của hệ thống chính trị đối với sự nguy hại của những luận điệu sai trái, xuyên tạc bản chất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. Vì sự nghiệp đổi mới càng được đẩy mạnh, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trở thành mối quan hệ lớn phải được nhận thức và xử lý đúng đắn hơn để tạo động lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Như Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới càng đi vào chiều sâu, trên quy mô rộng lớn, việc nhận thức đúng và xử lý tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị càng trở nên quan trọng và bức thiết. Giai đoạn tới, cần đặt đúng vị trí vấn đề đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế phải đồng bộ, phù hợp, có bước đi thích hợp,… để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững”(12). Trong khi đó, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung, đấu tranh phản bác những quan điểm xuyên tạc mối quan hệ này nói riêng là một hoạt động khó khăn, nhạy cảm, do đó, cần được lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chặt chẽ trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc của mọi tổ chức, lực lượng. Chỉ có trên cơ sở tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức mới làm cho các tổ chức, các lực lượng xã hội có thái độ đúng, ủng hộ, đồng thuận với Đảng, không bị kẻ xấu lôi kéo, thao túng và phát huy đầy đủ trách nhiệm trong tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác, từ đó mới bảo đảm cho nhiệm vụ này được tiến hành một cách chủ động, tích cực, có chất lượng và mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn. Tránh không mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác; nhưng không tuyệt đối hóa, chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Hai là, tiếp tục có những đột phá mới trong tư duy lý luận của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, vấn đề đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam phải tích cực nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thường xuyên tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước; bám sát sự vận động, biến đổi của tình hình trong nước, quốc tế để từng bước nhận thức đầy đủ, sáng rõ. Tức là, những vấn đề trên đây đã, đang đòi hỏi ở Đảng ta một tư duy lý luận không chỉ mang tính sáng tạo, độc đáo mà còn có khả năng đột phá và mang lại hiệu quả cao hơn nữa trong việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây không chỉ là phương thức hữu hiệu nhất để đấu tranh phê phán, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chung quanh mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, mà còn trở thành tiền đề trực tiếp, cơ sở khoa học, kim chỉ nam dẫn dắt cho thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng trong thời gian tới.
Ba là, tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực của lực lượng chuyên trách đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung, phản bác các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam nói riêng. Tham gia vào cuộc đấu tranh này là trách nhiệm chính trị của các cấp, các ngành, chứ không chỉ là công việc, nhiệm vụ của riêng ai. Tuy nhiên, để giữ thế chủ động, đấu tranh kịp thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả đấu tranh đòi hỏi phải xây dựng một lực lượng chuyên trách giữ vai trò nòng cốt, xung kích. Trong điều kiện hiện nay, cần tích cực bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ mọi mặt của lực lượng này. Bởi thực tiễn đã chứng minh, lực lượng chuyên trách cũng như bất kỳ cá nhân, tổ chức, lực lượng nào đều không thể đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm, tư tưởng, lý luận sai trái, các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam với một bản lĩnh chính trị non yếu và trên một nền tảng lý luận nghèo nàn; một hệ thống tri thức không đầy đủ, xa rời những vấn đề thực tiễn đang diễn ra…
Do vậy, yêu cầu vừa có tính cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài là cần tiếp tục bồi dưỡng lực lượng chuyên trách đấu tranh tư tưởng, lý luận một cách toàn diện, trước tiên phải đào luyện họ trở thành những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ tư duy lý luận cao, có phương pháp luận chiến nhạy bén, sắc sảo; thậm chí là những chuyên gia giỏi cả về lý luận lẫn chuyên môn, nghiệp vụ, những cây bút chiến sắc bén, am hiểu thời cuộc./.
(Nguồn TCCS)
————————————-
(1) Trần Văn Phòng: “Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở Việt Nam”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 30-9-2015
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 458
(3), (4) Văn kiện Đảng: Toàn tập (1988 – 1989), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49, tr. 539, 540
(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. 37, tr. 641
(6), (7) Trần Phúc Thăng: “Vấn đề thể chế chính trị nhất nguyên ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1-2021, tr. 15, 17
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 54
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 71
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 99
(12) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 220