Hiến pháp và pháp luật Việt Nam luôn bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân
Lâu nay, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn, cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước luôn lợi dụng chiêu bài tôn giáo để xuyên tạc, kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam; chúng luôn rêu rao, kêu gào Việt Nam không có tự do tôn giáo, phân biệt, đối xử không công bằng với đồng bào có đạo (thiên chúa giáo, tin lành…), đàn áp tôn giáo; chúng kêu gọi, kích động đồng bào theo đạo, chủ yếu là thiên chúa giáo, tin lành chống đối chính quyền; kêu gọi phương Tây hỗ trợ, giúp đỡ, can thiệp và tìm mọi cách xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam… Vậy, thực tế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được pháp luật Việt Nam quy định từ ngày lập nước (1945) đến nay như thế nào?
Tại Điều 10 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Đến Hiến pháp 1959, tại Điều 26 quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi rõ hơn: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Ở Hiến pháp 1980, tại Điều 68 ngoài quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” còn có thêm nội dung: “Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Đến Hiến pháp 1992, việc thể chế hóa thành pháp luật về quyền tự do tôn giáo của công dân được thể hiện rộng rãi, toàn diện hơn nữa tại Điều 70: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”; Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định quyền này tại Điều 24: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”…
Tại Điều 1, Pháp lệnh về Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2013 khẳng định “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau”…
Tại Điều 3, Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ đầu năm 2018 ghi rõ: “Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: 1. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân. 3. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo”.
Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế và các nước trên thế giới đều có những quy định hạn chế quyền này. Ví dụ: Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”; hay tại Điều 15 quy định: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”
Không chỉ ở Việt Nam mà pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều có những nội dung thể hiện việc thực hiện các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, quyền con người nói chung phải nằm trong những giới hạn nhất định. Theo đó, trong trường hợp các loại hình tổ chức tôn giáo có hoạt động làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi phạm đạo đức,… đều không cho phép hoạt động, thậm chí một số quốc gia còn sử dụng vũ lực để loại bỏ. Chẳng hạn, tại Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 quy định: “1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc.”
Nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng luôn phải tuân thủ pháp luật, chịu sự quản lý của nhà nước. Ví dụ như ở Pháp, Luật ngày 9 – 12 – 1905 của nước Cộng hòa Pháp, tại Điều 26 quy định: “Việc tụ tập để thực hiện các nghi lễ tôn giáo phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của cơ quan chính quyền có chức năng giữ gìn trật tự công cộng. Cấm việc hội họp có tính chất chính trị ở nơi chuyên dùng vào việc thờ cúng và thực hành lễ nghi tôn giáo”; Điều 35 của luật này cũng nêu rõ: “Giáo sĩ nào công khai bằng lời nói hoặc bằng văn bản kêu gọi, khước từ việc thi hành pháp luật của nhà nước sẽ bị phạt tù từ 3 tháng tới 2 năm”. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, các chức sắc tôn giáo khi nhậm chức đều phải tuyên thệ: “Tôi xin thề và hứa sẽ tôn trọng chính phủ hợp hiến. Chiểu theo nghĩa vụ phải quan tâm tới lợi ích của Nhà nước Đức, trong khi thực hiện những trách nhiệm thánh vụ, tôi phải bảo vệ lợi ích của Nhà nước trước bất kỳ một sự gì khả dĩ tác hại tới lợi ích đó”…
Với các quy định của pháp luật quốc tế, một số quốc gia trên thế giới nêu trên cho thấy, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hoàn toàn phù hợp với quy luật, việc bảo đảm và tôn trọng tự do tôn giáo, đoàn kết dân tộc đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay. Việc thực hiện các quyền này đều phải dựa trên cơ sở của pháp luật, nếu không dựa trên cơ sở của pháp luật thì sẽ bị hạn chế và bị xử lí là điều hiển nhiên. Chỉ có những đối tượng đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc mình, hoặc những kẻ chỉ “soi mói” vào công việc của quốc gia khác mới vu cáo việc ghi nhận quyền này ở Việt Nam nhằm thực hiện mục đích đen tối mà thôi.
(NQ)